Từ ngữ A-Di-Ðà Phật là do phiên âm từ tiếng Phạn: Amitabhâ, chữ Hán dịch là Vô Lượng Quang Phật, nghĩa là Ðức Phật sáng không lường được.

Ngôn Ngữ


·                    H: 阿彌陀佛

·                    A: Amita Buddha.

·                    P: Amitabha.

Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo CLTG. Do đó, bài kệ U Minh Chung, câu 34 là: “Nam mô Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Ðại Hội Di-Ðà Cổ Phật Chưởng giáo Thiên Tôn.” (Di-Ðà Cổ Phật là Ðức Phật A-Di Ðà xưa). Nay là TKPÐ, Ðức Phật A-Di-Ðà vâng lịnh Ðức Chí Tôn giao quyền Chưởng giáo CLTG cho Ðức Phật Di-Lạc.

KCS: A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.

Câu niệm: “Nam Mô A-Di-Ðà Phật” gồm 6 chữ, được gọi là Lục tự Di-Ðà. Pháp môn niệm Lục tự Di-Ðà là để quán tưởng Phật A-Di-Ðà, Ngài tượng trưng thể tánh sáng suốt của Thượng Ðế, nên niệm như vậy là để giúp cho tánh sáng suốt trong con người thức tỉnh và phát triển đến chỗ phát huệ.

Ðức Phật A-Di-Ðà có 48 lời đại nguyện mà hai lời đại nguyện quan trọng nhứt là: một và hai.

phật giáo việt nam Lời nguyện thứ nhứt: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh thì tôi không ở ngôi Chánh giác.

phật giáo việt nam Lời nguyện thứ nhì: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng Nhơn Thiên trong cõi nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba đường ác đạo thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.

Chính vì hai lời đại nguyện nầy mà Ðức Phật A-Di-Ðà mãi mãi không bao giờ ở ngôi Chánh giác, bởi vì Luật Công bình của CKVT lúc nào cũng phải có 2 khối đối trọng nhau: Có Thiên đường thì phải có Ðịa ngục, có Thiện thanh thì phải có Ác trược, có Tiên Phật thì phải có Quỉ Ma. Nếu Ma Quỉ bị tiêu diệt hết thì cán cân Công bình thiêng liêng gãy đổ, Luật Tiến Hóa của CKVT ngưng lại, thì đó là một cuộc đại sụp đổ của Càn Khôn, tức là sụp đổ Thượng Ðế. Ðiều nầy không thể xảy ra được vì Thượng Ðế thì hằng hữu bất biến.

Có 2 sự tích về Ðức Phật A-Di-Ðà: Sự tích thứ nhứt, Ngài là vua Vô Trách Niệm; sự tích 2, Ngài là khất sĩ Amita.

phật a di đà

I. Sự tích thứ nhứt

Chép trong Kinh Bi Hoa.

Trong vô lượng kiếp ở quá khứ, có một vị vua gọi là Chuyển Luân Vương, tên Vô Trách Niệm, Ngài có một quan đại thần là Bảo Hải. Vua tôi rất thân mật nhau.

Thời đó có Ðức Phật Bảo Tạng ra đời, giáo hóa chúng sanh. Vua và quan đại thần đến nghe thuyết pháp, vua phát tâm thỉnh Phật và đại chúng vào Hoàng cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phước báo. Khi đó, đức Phật Bảo Tạng phóng hào quang sáng ngời soi khắp thế giới của chư Phật mười phương cho chúng hội đồng thấy. Nhờ đó nhà vua phát tâm tu hành, đến đảnh lễ Phật và phát nguyện như sau:

“Tôi nguyện tu hành, khi thành Phật, ứng hóa vào cõi Tịnh Ðộ an vui, nguyện độ tất cả thế giới của tôi dứt hết mọi điều khổ não. Nếu không y lời nguyện thì tôi chẳng chịu thành Phật.”

Do nhơn duyên ấy, sau nầy vua Vô Trách Niệm tu thành Phật hiệu là A-Di-Ðà, ở cõi CLTG mà tiếp độ chúng sanh.

Còn quan đại thần Bảo Hải thì phát nguyện như sau:

“Tôi nguyện tu hành, khi thành Phật, ứng hóa về cõi Ta bà ô trược để dạy bảo chúng sanh đương ám muội đồng vãng sanh về cõi CLTG.”

Do đó, quan đại thần Bảo Hải sau tu thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ Phật giáo ở cõi hạ giới.

II. Sự tích thứ nhì

Kiếp chót của Phật A-Di-Ðà.

Ngài là một khất sĩ, tên hiệu AMITA (phiên âm là A-Di-Ðà). Ðứng đầu Giáo hội khất sĩ là một Trưởng lão, đó là một vị Phật thời quá khứ tái sanh trở lại làm Trưởng lão.

Một hôm, vị Trưởng lão đến tháp thờ Phật, lén lấy cái chén bịt vàng liệng xuống gạch cho bể nát. Sau đó, Ông kêu hết thảy Tỳ kheo đến hỏi rằng:

– Ai làm rớt bể chén quí nầy?

Cả thảy Tỳ kheo đều nói là không biết, còn Amita thì làm thinh không trả lời, vì ông nghĩ rằng: Cái chén bể tất nhiên phải có người va chạm, nhưng cả thảy Tỳ kheo đều nói không biết, vậy thì ai vào đây? Không lẽ vị sư Trưởng lão? Mà nếu không ai chịu nhận thì vụ nầy còn hạch hỏi lôi thôi nữa, trong Giáo hội ắt bị mang tiếng xấu xa. Ta nên tính cho êm xong, ta nên làm thinh để lãnh tội cho vị Tỳ kheo nào vô ý làm bể đó, cho vị ấy an lòng tu học.

Trưởng lão thấy vậy mới nói:

– Amita, ngươi lặng thinh tức là ngươi phạm tội đó. Vậy muốn cho hết tội, ngươi phải chịu phạt công quả 10 năm, mỗi buổi sáng vào rừng lượm củi, chiều tối phải nấu nước thắp đèn cho Giáo hội.

Khi đó Amita ưng chịu, thực hành công quả đủ 10 năm mà trong lòng vẫn vui vẻ, không than phiền chi cả, chứng tỏ tâm đức trọn vẹn. Trưởng lão thấy vậy rất vui mừng.

Một buổi sáng kia, Trưởng lão bèn hóa hiện ra một cái thây ma của người thế gian chết nằm tại chỗ tháp thờ Phật, thúi hôi dơ dáy, có ruồi lằn bu đậu, vòi tửa tanh hôi.

Vị Trưởng lão bảo tăng chúng đem thây đi chôn và quét rửa chỗ đó cho sạch sẽ. Ai nấy đều lảng tránh, nói rằng:

– Chúng tôi là bậc trong sạch, không làm được việc ấy. Hãy để cho Amita về làm.

Bữa ấy là đúng công quả 10 năm của Amita, nhưng Amita vẫn còn đi gánh củi làm việc như thường. Khi về gần tới Giáo hội, chư Tỳ kheo đón báo cho biết tự sự, bảo Amita về mau đặng lo chôn cất cái thây ma ấy.

Về đến cửa, Amita lật đật bỏ gánh củi xuống, lấy cuốc cầm tay, thẳng đến định vác cái thây lên vai đem chôn.

Vị Trưởng lão nói:

– Ngươi hãy đi độ cơm rồi sẽ chôn cũng không muộn.

Amita bạch rằng:

– Bạch Trưởng lão, xin để tôi đem chôn xác chết ngay, để lâu hôi thúi chỗ thờ phượng không nên. Tôi nhịn ăn một bữa cũng không sao, nhưng nhờ vậy mà tâm được an ổn.

Amita liền đến gần xác chết thì không cảm thấy hôi thúi gì hết, vác xác chết lên vai cũng không thấy nặng nề gì, đi được nửa đường thì cảm thấy nhẹ bổng, giựt mình ngó lại thì xác chết lại biến hóa thành một tòa sen vàng, hào quang rực rỡ, sực nức mùi hương, bay bổng lên không trung, rồi lần lần hạ xuống trước mặt Amita. Chư Thiên, Bồ Tát đều rải hoa chào mừng và thỉnh Amita ngự lên tòa sen vàng.

Lúc đó, Amita sửng sốt, chẳng biết thực giả ra sao, nên ngần ngại không dám bước lên tòa sen. Chư Thiên và Bồ Tát thúc giục mãi, làm Amita bối rối, nhưng định tỉnh nghĩ rằng: Ta vốn là người trong sạch, dầu ma quỉ có gạt ta cũng chẳng sợ chi, ta nên bước lên tòa sen xem thử.

Amita liền bước lên tòa sen, tức thì một cảnh tượng vô cùng huyền diệu hiện ra, thân thể Amita phát ra hào quang sáng lòa, áo Phật oai nghi tề chỉnh, tinh thần an trụ tươi sáng như nhiên, các phép thần thông hiện đủ, trí huệ toàn giác. Amita đắc đạo chứng quả Như Lai.

Ngài cho tòa sen bay trở lại Giáo hội, tạ ơn Trưởng lão, rồi cùng Trưởng lão hóa hiện hào quang bay về Tây phương.

Tăng chúng đều chấp tay đảnh lễ: Na-mô Amitabha, tức là: Nam Mô A-Di-Ðà Phật.

Phật giáo Tịnh Ðộ tông tu theo Phật A-Di-Ðà, nguyện về cõi CLTG của Ðức Phật A-Di-Ðà, nên luôn luôn trì niệm Lục tự Di-Ðà: Nam mô A-Di-Ðà Phật.

Tịnh Ðộ tông thọ trì ba bộ Kinh: A-Di-Ðà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh.

Ðức Phật A-Di-Ðà thường hiện thân đi tiếp dẫn những người có duyên phần, có hai vị Bồ Tát hầu hai bên: Bên tả là Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát và bên hữu là Quan Thế Âm Bồ Tát, gọi chung ba vị là Di-Ðà Tam Tôn.

Di-Ðà Tam Tôn tượng trưng ba thể tánh: Bi, Trí, Dũng của Phật.

·                    A-Di-Ðà Phật tượng trưng thể tánh sáng suốt: TRÍ.

·                    Quan Thế Âm Bồ Tát tượng trưng thể tánh BI.

·                    Ðại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng thể tánh DŨNG. 

Chú Thích


·                    CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

·                    TKPÐ: Tam Kỳ Phổ Ðộ.

·                    KCS: Kinh Cầu Siêu.

·                    CLTG: Cực Lạc Thế giới.